Lịch sử Tự_truyện

Tự truyện nảy sinh trong môi trường văn hóa Tây Âu cận đại[1], nền văn hóa với tinh thần tự phân tích và cảm quan cá nhân chủ nghĩa. Những tự truyện đầu tiên in dấu nếp sống của tín đồ Thiên Chúa giáo, rõ nhất là việc xưng tội. Chính ở văn hóa này đã nảy sinh tác phẩm mẫu mực thời đầu của thể loại tự truyện như Tự thú của Thánh Augustinus, cho đến những tác phẩm đã đạt đỉnh cao về sự hoàn thiện thể loại như Tự thú của Jean Jacques Rousseau.

Tự truyện tương đối gần với tiểu thuyết, nhất là những tiểu thuyết Tây Âu thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 có những nhân vật kể chuyện ở ngôi thứ nhất số ít (xưng "tôi"), có tham vọng ghi lại lịch sử tâm hồn con người từ "cái nhìn bên trong" như Adolphe (1816) của Benjamin Constant, Tự thú của một đứa con của thời đại (1836) của Alfred de Musset v.v. Các tiểu thuyết của trường phái tự nhiên chủ nghĩa Nhật Bản thế kỷ 19, như Ie (Gia đình, 1910-1911) của Shimazaki Tōson và Iri no hotori (Bên con lạch, 1915) của Masamune Hakuchō, Futon (Tấm đệm, 1907) của Tayama Katai, Hatten (Phát triển, 1911-1912) của Iwano Hōmei, Fuji (1925-1927) của Tokutomi Roka (tên thật là Tokutomi Kenjirō). Jioden (tự truyện, 1943-46, xuất bản năm 1947) của Kawakami Hajime, đều có thể coi là các tác phẩm tiểu thuyết tự thuật[2]. Các tác phẩm tự thuật trở thành lời "tác giả thuật lại đời mình một cách tự nhiên và trung thực, mỗi bối cảnh của một giai đoạn trong cuộc đời là một chủ đề xếp thành tiểu thuyết, và tùy theo mỗi sự việc ấy mà tác giả bình luận hay lý luận để tỏ rõ tư tưởng, lập trường hay chí hướng của mình"[3], hay nói cách khác, cả về nội dung và hình thức nghệ thuật, những tác phẩm đó thể hiện rõ rệt chức năng của các tự truyện.

Việt Nam, hình thức tự truyện đã có một số xuất bản phẩm tạo nên sự kiện được dư luận chú ý gần đây, điển hình là Lê Vân, yêu và sống của Lê Vân[4][5].